KokoronoNiwa’s diary

書くことで心を癒す

Coi phim nói chuyện đời---ドラマで勉強になったこと

                                            f:id:KokoronoNiwa:20161206180307j:plain

Ngày cuối tuần mình quyết tâm cố thủ trong nhà... tránh rét. Đọc sách chán, mình tìm đến thú vui khác để đỡ đau mắt hơn. Đó chính là ... xem phim :D. Một bộ phim hiện đang phát sóng trên truyền hình Nhật Bản - Pretty Proofreader. Bộ phim tâm lý hài nhẹ nhàng, đúng gu mình thích. Nhân vật chính là cô gái rất sành điệu, nói nhanh, nói nhiều nhưng đầy nhiệt huyết và hoài bão. Cô gái xinh đẹp nuôi ước mơ được làm việc cho một tạp chí thời trang có tiếng của Nhật. Nhưng cuộc đời không mỉm cười với cô như cô luôn mỉm cười với nó. Trải qua 6 mùa tuyển dụng, tương đương với 6 năm, cô vẫn ... trượt vỏ chuối. Cô trở nên nhẵn mặt với bộ phận tuyển dụng của công ty. Họ cũng thắc mắc không hiểu sao cô không đi tìm việc khác. Nhưng cô khẳng định rằng mình chỉ muốn làm ở công ty này và sợ rằng nếu phỏng vấn ở chỗ khác cô sẽ đậu và bỏ lỡ mất ước mơ. Năm thứ 7, lòng kiên trì bền bỉ đã mang lại cho cô cơ hội được nhận vào công ty, nhưng không phải ở phòng Tạp chí Thời trang, mà số phận trớ trêu lại đưa cô vào phòng Hiệu Đính. Cô đã dự định từ chối, tuy nhiên đây có thể là cơ hội hứa hẹn để cô được đặt chân vào công ty. Đã ở trong công ty rồi thì từ phòng Hiệu Đính đến phòng Tạp chí Thời trang dù sao cũng… chỉ có một tầng lầu :D. Và, từ đây, câu chuyện mới bắt đầu.

Như tất cả mọi người đều biết, công việc kiểm tra lỗi trước khi sách được in hàng loạt và xuất bản là một công việc chán nhất quả đất. Nó có vẻ như phù hợp với những thanh niên nghiêm túc hoặc các cụ cao niên hơn là một cô gái sành điệu và sôi nổi. Thế nhưng, từ công việc tưởng chừng như nhàm chán ấy, cô gái đã ngộ ra rất nhiều điều thú vị và đáng suy ngẫm trong cuộc sống. Trước giờ ai cũng nghĩ, công việc hiệu đính chỉ là kiểm tra lỗi chính tả, lỗi đánh máy. Nhưng công việc này không chỉ đơn giản như vậy. Những người làm khâu cuối cùng trước khi xuất bản này, phải dò từng con chữ để xem tác giả có dùng nhầm từ không, từ ngữ đang sử dụng có dễ gây hiểu lầm không,… để đảm bảo 1 quyển sách được in ra hoàn hảo nhất. Thậm chí có lúc họ phải tranh luận với cả tác giả. Công việc này thật thầm lặng, nhưng những gì nó mang lại thật lớn lao. Tuy nhiên, có rất nhiều người xem nhẹ, thậm chí xem thường công việc này.

Chúng ta luôn coi việc 1 quyển sách khi in ra phải đúng, đó là chuyện đương nhiên. Nhưng ai đảm bảo cho sự đương nhiên đó thì chúng ta không quan tâm.

Tương tự, trong cuộc sống, mỗi ngày luôn có rất nhiều người lao động không ngừng nghỉ và âm thầm mang đến cho chúng ta một cuộc sống tốt đẹp, an toàn. 

Khi cho trẻ con vui chơi trong công viên, bạn đã từng nghĩ vì sao chiếc cầu tuột, chiếc bập bênh vẫn luôn sạch sẽ và hoạt động tốt dù phơi nắng, phơi sương? Đó là vì, khi công viên không còn ai, những người công nhân đã âm thầm kiểm tra và sửa chữa nhằm bảo vệ an toàn cho các em bé khi vui chơi. Khi đi tàu điện, bạn có bao giờ thử nghĩ vì sao tàu điện luôn hoạt động an toàn? Đó là vì, mỗi ngày, sau khi phục vụ hành khách chuyến cuối cùng, nhân viên kỹ thuật sẽ âm thầm kiểm tra đoàn tàu và đường ray cho đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất, nhằm đảm bảo an toàn tối đa cho hành khách. Ắt hẳn ai cũng sẽ nói, ôi dào, đó là chuyện đương nhiên, bận tậm làm gì. Nhưng, dù chúng ta biết hay không biết, bận tâm hay không bận tâm, những con người ấy vẫn luôn tận tụy với công việc của mình.

 ~~~~~~

最近は寒いので週末にも出かけず、家にこもって本を読んだり、ドラマを見たりしていました。お気に入りドラマは日本テレビで放送している「地味にスゴイ!校閲ガール・河野悦子」というドラマです。このドラマは、ファッションマガジンの編集者になりたい、お洒落な女性を巡る、素晴らしい物語です。主人公は有名な出版社のファッションマガジンの編集者を目指し、6年間で毎年応募していましたが、なかなか夢が叶いませんでした。7回目の応募でようやく同出版社の校閲部に就職が内定しました。お洒落な彼女は、つまらない校閲の仕事をしたくないということで、内定を断ろうと思いました。しかし、校閲部とファッションマガジン編集部が同じ社内なので、努力すればファッションマガジン編集部に異動されるチャンスがあるのではないかと彼女は思い入社することにしました。彼女は校閲部に入ってから、色々と勉強し今まで気づかなかったことに気づくようになりました。
このドラマを見ている私も、当たり前だと思っていた身近なことの重要さに気づきました。
主人公の校閲の仕事は地味で重要ではないと思われがちですが、これは本や雑誌等が出版できるまで省けない工程です。校閲とは、誤字脱字のチェックだけではなく、作家の書いた文章に矛盾していることがないか、作家の伝えたいことが読者に伝わるかも丁寧に確認しなければならない仕事です。そのため、気が利かない人にはできない仕事でもあります。関心を持っていれば、どの仕事でもやりがいがあると思います。実際に見えないからと言って価値がないわけではありません。
実生活にも、こういうような仕事が沢山あります。子供を公園の遊具で遊ばせる時、なぜ遊具が円滑に動いているかを考えたことがありますか?これは子どもたちがいなくなった時に遊具を点検・保守をしている人がいるためです。電車に乗る時、なぜ電車が安全に走っているかを考えたことがありますか?これは毎日、終電後に電車や線路の点検・メンテナンスをしている人がいるためです。私達が知らないうちに、見えないところで、私達の安全を守っている人がいますが、私たちは当たり前というふうに彼らの存在に気づいていません。
しかし、彼らは私たちが知っていても、知らなくても、黙々と自分の仕事に努力し、輝いています。

Mối liên quan giữa "Trải đệm" và "Khởi tạo cơ sở dữ liệu"

Hôm nay, trong lúc dịch tài liệu cho một dự án IT, mình bắt gặp một từ rất thú vị. Đó chính là từ 座布団敷く, có nghĩa là "trải đệm ngồi". Thật lạ, trong IT sao tự dưng lại xuất hiện từ này nhỉ? Lúc đầu mình cứ nghĩ là do viết nhầm. Mình bèn hỏi chị người Nhật làm design trong công ty. Chị ấy bảo rằng chị chưa nghe khái niệm ấy trong IT bao giờ. Mình hỏi thêm 1 em SE người Nhật, em ấy cũng lắc đầu. Mình định bụng sẽ hỏi lại khách hàng xem họ có ghi nhầm không, nhưng sợ bị hố nên mình "nhờ" anh Google thần thánh của mình 1 lần nữa cho chắc. Sau một hồi lâu tìm kiếm nát cái Database thì anh Google "nhả ra" cho mình một kết quả vô cùng hợp lý với bối cảnh câu văn mình đang dịch - "座布団敷く có nghĩa là データベースを初期化する". Ôi trời ơi, không thể tượng tưởng nổi tại sao "trải đệm ngồi" lại có nghĩa là "khởi tạo cơ sở dữ liệu" cơ chứ. 
Ơ, nhưng mà xét theo tính hình tượng thì cũng có lý chứ nhỉ. Có vẻ hình dạng vuông vuông của đệm ngồi trông cũng giống các table, view trong hình vẽ thiết kế Database đấy chứ nhỉ. Vả lại, việc khởi tạo Database sẵn cho hệ thống sử dụng cũng có thể liên tưởng đến hành động trải đệm sẵn mời khách vô ngồi... rồi muốn làm gì thì làm vậy : D
Sau vụ này mình rút ra 3 kết luận:
1- Tiếng Nhật rất giàu tính hình tượng và vô cùng thú vị.
2- Không hẳn mấy bạn Nhật biết tất cả về tiếng Nhật.
3- Anh Google của mình vẫn luôn thần thánh.

ーーー
今日、IT系資料を翻訳している際は分からない言葉が出てきました。それは座布団敷くという言葉です。この言葉の文字通り意味が分かりますが、この場面で使われている意味を理解することができませんでした。日本人の同僚に聞いてみると、聞いたことなく、意味が分からないという答えが返ってきました。日本人でも分からないので、作成者の記載ミスだと思いました。但し、確認する前に、念のため、もう1回Googleで検索することにしました。やはり結果がでるまでに時間が掛かりましたが、ようやく納得できる結果が出てきました。【座布団敷くとはデータベースを初期化するということです。】最初はどうしてこういう使い方があるか分かりませんでした。しかし、よく考えると、分かるようになりました。座布団が四角の形を持ち、データベースのテーブルやビューの図と似ていることは1つの理由になるかもしれません。また、データベースを初期化することは座布団を敷き、人を丁寧に座ってもらうイメージと近いのではないでしょうか。
日本語は本当に豊かで面白いですね。また、Google知恵袋はすごく役に立ちますよね。:))))))

Chuyện lâu rồi sao chưa thấy hồi kết!?

Bài này viết từ hồi đầu xuân, nay tự nhiên đọc lại thấy....chuyện cũng chưa đâu vào đâu.

Có 1 thời tui "dữ dội" vầy sao trời!?.

----------

Cơn giận của một người Việt Nam!
Trước tiên, tôi muốn cho mọi người biết tôi đang rất giận!
Tôi hiện không sống tại Việt Nam và chẳng mấy khi quan tâm đến những vấn đề đao to búa lớn như kinh tế, chính trị, xã hội. Vì thế một kẻ thờ ơ, bàng quan với thời cuộc như tôi chưa bao giờ tham gia vào các chủ đề “nóng hổi” trên mạng. Nhưng lần này, tôi muốn được nói với tư cách là một người Việt Nam quan tâm đến đất nước con người Việt Nam.
2,3 tuần này tôi thấy trên các trang báo mạng tràn ngập các thông tin về vụ cá chết và dạt bờ hàng loạt. Và sáng nay tôi đã được người Nhật trong công ty hỏi về vấn đề này. Có nghĩa là nó cũng đang được đăng trên các trang tin tức nước ngoài, và nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Từ đầu tháng 4 đã xuất hiện các bài viết về hàng loạt cá chết, theo sóng dạt vào bờ biển thuộc địa phận tỉnh Hà Tĩnh. Trong số đó có cả những con cá lớn đến 50 kg và cá sống ở tầng nước sâu. Hiện tượng này bắt đầu ở Hà Tĩnh và bắt đầu lan rộng ra các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Theo như các nhà chức trách và cơ quan chức năng có liên quan, họ đang “gấp rút” tiến hành điều tra nguyên nhân nhưng vẫn chưa có kết luận chính thức.
Nghe buồn cười quá nhỉ! Định nghĩa “gấp rút” của các vị là gì? “Gấp rút” mà tận 2,3 tuần các vị còn chưa biết nguyên nhân là gì à!? Tóm lại, các vị đang làm cái khỉ gì thế!?
Thôi thì các vị nói là chưa có kết quả chính thức thì dân ngu như chúng em đành phải tạm chấp nhận vậy. Nhưng chí ít ra nếu có điểm khả nghi rồi, có thông tin cần thiết phải điều tra rồi thì đề nghị các vị xách cái mông lên và đi xác minh dùm cái. Chắc các vị cần phải làm theo qui trình gì đó, bọn dân ngu dốt như chúng em cần phải biết bình tĩnh ăn cá chết.... và chờ.
Thực ra thì người dân dù không có kiến thức chuyên môn, không bằng này cấp nọ họ vẫn biết cái nguyên nhân đó xuất phát từ đâu đấy! Và dĩ nhiên cá chết, họ chẳng đánh bắt được gì thì thiệt hại trước mắt đã rõ. Nhưng sức khỏe của những người dân sống vùng biển ô nhiễm nặng nề như vậy mới là vấn đề quan trọng cần quan tâm.
Đã có thông tin người dân ăn cá chết bị ngộ độc và 1 thợ lặn tử vong và 5 thợ lặn khác đang nhập viện sau khi lặn xuống vùng biển này.
Hôm nay hiện tượng này xảy ra ở 4 tỉnh kể trên, nhưng liệu ngày mai nó sẽ lan rộng tới đâu?
Mà cũng chẳng cần chờ tới khi nó lan ra cả nước Việt Nam thì tác hại của nó cũng tới tận từng nhà trên toàn quốc rồi. Bởi mấy ai mà không ăn cá chứ!?
Mà bạn có biết xác cá chết người ta đang xử lý như thế nào không? Theo các bác có thẩm quyền thì nó được tiêu hủy bằng cách chôn đi. Nhưng theo những người dân thật thà tại hiện trường thì nghe đâu có những chiếc xe tải lù lù đến xúc cả lên xe rồi lại lù lù đi. Nó đi đâu nhỉ!? Chẳng phải là đi đến các chợ trên mọi miền để lên bàn ăn của từng nhà và được đưa vào bụng của từng người sao?
Ai sẽ bảo về những người dân thường Việt Nam? Ai sẽ bảo vệ biển đây!?

Khi tôi đang trút căm phẫn lên những dòng chữ này thì đột nhiên nhận được tin nhắn từ một em đồng nghiệp ở Đà Nẵng: “Chị ơi cá chết tới Đà Nẵng rồi. Em lo quá chị ơi! Giờ làm sao đây?”. Chị cũng ko biết làm sao đâu em ạ. Mình đặt niềm tin vào các cơ quan nhà nước thôi em ạ.
Nhưng chờ đợi họ, liệu có kịp không!?

 

 

 

 

----------

 

 

 

下記は今年4月に書いた魚の大量死についての記事です。但し、今に至ってもまだ解決されていないようです。

 

 

 

----------

 

 

 

ベトナム人として私は怒っています。

ベトナムに長い間住んでおらず、政治や社会、経済等の複雑な問題について鈍感な私は国内のニュースについて意見を出すことは殆どありません。

そんな私ですら怒っている問題があります。

ここ2、3週間、ベトナムのニュースサイトは北中部で起きている魚の大量死についての記事で溢れています。

今では海外のニュースサイトにも載っています。

4月初旬、ハティン省の沿岸に大量の魚の死骸が流れ着きました。
その中には、深海に生息する個体や重さが50キロもある個体も含まれています。
こうした現象はハティン省からクアンビン省クアンチ省、トゥアティエン・フエ省にあっという間に広がっていきました。

関連の機関や各省の代表者によると、原因究明を急いでいますが、正式な結論は出されていません。

おかしくないですか。
原因究明を急いでいるとはどういうことでしょうか。
急いで対応しているのに、2、3週間も原因がわかっていないとは一体何をしているのでしょうか。
疑いや調査する必要なことがあれば、調査は進んでいるはずなのに、発表がありません。

実は専門的な知識を持っていない漁村の人々やベトナム国民はみんな知っています。
原因はハティン省に建設された製鉄工場の排水と言われています。

漁業できず生活が困るという問題はもちろん、汚染されてしまった沿岸に住む住民の健康が大丈夫なのか問題です。

死んだ魚を拾って食べた人が中毒を起こしたこと、海中にダイビングした人が死亡したことも報告されています。

今日では上記の4省で起こっていますが、明日はどこまで広がっていくか不明です。

毒が流出した海水がベトナム全国の海岸まで広がらずとも、その影響は4省に限らず、全国に広がるでしょう。

ビーチに漂着した魚の死骸がどのように処分しているか知っていますか。
関係機関の役員によると、魚の死骸は埋めて処分されていますが、現場の住民は、「不審なトラックに魚が積み込まれどこかへ去っていった」と語っていました。

どこかとはベトナム各地の市場ではないでしょうか。
誰がベトナム国民を助けてくれますか。
誰がベトナムの海を守ってくれますか。

私たちの声は届くのでしょうか。

Tuyết mùa thu 晩秋の初雪!

          

f:id:KokoronoNiwa:20161124183346j:plain

Hôm nay ở Tokyo tuyết rơi rất nhiều. Đây là một hiện tượng hiếm có trong vòng hơn 50 năm qua ở Nhật. Tuyết ở Tokyo và vùng lân cận thường rơi vào thời điểm lạnh nhất trong năm là tháng 1 hoặc tháng 2. Thế nhưng, năm nay tuyết lại rơi vào tiết cuối thu. Cứ cái đà biến đổi khí hậu toàn cầu như thế này thì không chừng vài năm nữa sẽ có tuyết rơi vào giữa hạ (Hợp thức hóa cho bài "Tuyết rơi mùa hè"). :D

Mình thì không thể nói mấy chuyện vĩ mô như "biến đổi khí hậu toàn cầu" được, vậy nên trong bài viết lần này, mình chỉ muốn chia sẻ về một hình ảnh rất cảm động xảy ra trên đường đi làm hôm nay.

Trong mưa tuyết kèm theo những cơn gió lạnh tê tái, mình mặc 3,4 lớp áo từ heat-tech, áo len, áo khoác mỏng, áo khoác dày mà vẫn thấy lạnh thấu xương. Vậy mà bên ngoài công trình đang xây dọc đường đi, 4,5 cụ già mặc đồ đồng phục (hình như giống đồng phục bảo vệ bên Việt Nam mình), bên ngoài khoác tấm áo mưa mỏng tanh, đứng co ro, run rẩy. Tuy lạnh là thế, nhưng mỗi khi có người đi ngang qua, các cụ đều chào buổi sáng mọi người bằng giọng rất vui vẻ. Thường ngày, mình chỉ cúi đầu chào lại, chưa bao giờ mình bắt chuyện với họ, nhưng hôm nay không hiểu sao như có điều gì thúc giục, khi sắp đi lướt qua cụ già cuối cùng, mình đã nán lại chào: "Hôm nay lạnh quá bác nhỉ?" (Người Nhật thường hay chào nhau theo kiểu hỏi thời tiết như: "Trời hôm nay đẹp quá ha", "Trời hôm nay nóng quá ha"...). Cụ già cười khề khề, đáp lại rất nhiệt tình: "Ừ, hôm nay lạnh quá! Thời tiết thật là kỳ lạ cháu nhỉ! Cháu đi làm nhớ cẩn thận kẻo ốm thì khổ đấy!". Hu hu.... Trời mưa tuyết, giá rét mà sao thấy lòng ấm áp kỳ lạ. Thấy trong lồng ngực có một cái gì đó dâng lên thật khó tả. Người già ở Nhật, không phải họ không có tiền, họ có nhiều tiền nữa là đằng khác. Chẳng những thế, họ được nhà nước chăm lo rất chu đáo. Vậy sao họ vẫn phải vất vả đi làm? Chắc có lẽ họ không muốn trở thành một phần thừa thãi của xã hội, họ cũng không muốn mình quá rảnh rỗi để cảm nhận rằng họ đang già đi và trở nên vô dụng.

------

今日は東京で雪がたくさん降っていました。東京の初雪は通常、真冬(1月又は2月)に降りますが、今年は11月に初雪が降りました。このような珍しい現象は54年ぶりだと言われています。この原因は地球の気候変動に関係があるという説もあります。気候変動の問題であれば、近い将来、真夏に雪が降る可能性があるかもしれません。(苦笑)

そんな寒い今朝、通勤の時に会ったお爺ちゃんたちについて話したいと思います。

雪が冷たい風と相まって体感温度が-4℃まで下がりました。ヒートテック、セーター、上着、マフラー、手袋までつけている私ですら、震えるほど寒いのですが、工事をしている道端に立っているお爺ちゃんたちは寒そうな制服の上に、薄い透明なレーンコートしか着ていません。お爺ちゃんたちはきっとすごく寒いはずです。しかし、その道を通った一人ひとりへ笑顔で丁寧な挨拶をしていました。

私は今まで挨拶してくれたら、いつも微笑を浮かべながら頭を下げ、挨拶を返すだけでした。話をかけたことがありませんでしたが、今日はまるで心から何かに促されたように、最後のお爺ちゃんとすれ違う時に足を留めてお爺ちゃんに向かって、「今日は寒いですね」と私から話を掛けました。「そうだね。今年の雪は早いよね。寒いから、風邪を引かないように気をつけてね。風邪をひいたら、大変だよ。」とお爺ちゃんが返事してきました。

寒い天気の中私の心が、お爺ちゃんの励ましの言葉で温められました。なんだか胸からあふれる気持ちは言葉で表現できないほど不思議でした。

日本の老人は貯金以外に年金を貰っているので、余裕に生活できるのではないでしょうか。彼らはどうしてそんなに苦労しているのでしょうか。

彼らは自分の老いたことを十分に意識しているからこそ、時間を無駄にせず、人生を有意義に送りたいのかもしれません。その上に、暇になれば暇になるほど、ボケるような老化現象が早く出て来るという理由もあると思います。

Tôi yêu tiếng Việt.日本語を勉強してこそベトナム語を愛するようになりました!

            

         f:id:KokoronoNiwa:20161122204605p:plain

Là người Việt Nam, ắt hẳn ai cũng tự tin về vốn tiếng Việt của mình. Mình cũng đã từng như vậy. Nhưng hiện tại, mình lại trở nên thiếu tự tin về ngôn ngữ mẹ đẻ - tiếng Việt.

Từ lúc bắt đầu cắp sách đến trường, mình đã được thầy cô dạy rằng: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”, “Tiếng Việt rất đẹp và thú vị”. Tuy nhiên, lúc đó mình đã nghĩ: “Tiếng Việt có gì khó cơ chứ?”. Bởi lẽ, mình có thể nói tiếng Việt không cần suy nghĩ, nói một cách vô thức cũng giống các hoạt động bản năng khác như ăn uống hay hít thở. Thậm chí mình chẳng bao giờ lăn tăn đến cái thứ mình đang dùng để giao tiếp cụ thể nó là cái gì.

Có thể lấy một ví dụ để dễ hình dung như sau. Khi mỗi ngày bạn chỉ ăn một món là "cơm", bạn không hề biết đến sự tồn tại của những loại đồ ăn khác trên đời, bạn sẽ chẳng buồn thắc mắc “cơm là gì”, “cơm có ngon không”. Bởi lẽ những suy nghĩ này giống như một loại định nghĩa, và định nghĩa chỉ ra đời để phân biệt một thứ so với những thứ khác. Nếu đã không có đối tượng để so sánh thì dĩ nhiên, định nghĩa cũng chẳng ra đời và người ta cũng chẳng buồn suy nghĩ về thứ đó. Tương tự như vậy, một đứa chỉ biết mỗi tiếng Việt như mình tuyệt nhiên không hề có cảm tưởng gì về tiếng Việt. Thế nhưng, khi bắt đầu học tiếng Nhật, tôi đã bắt đầu biết so sánh tiếng Việt khó hay dễ và nhận ra nhiều điều về tiếng Việt. Tuy nhiên, quá trình giác ngộ này cũng tốn khá nhiều thời gian :)

Khi mới bắt đầu học tiếng Nhật, mình bị choáng váng với cái thứ ngoằn nghèo như giun đất, mà người ta gọi là chữ tiếng Nhật. Nghĩ lại, đó là “vẽ tiếng Nhật” chứ chẳng phải viết nữa. Chưa kể câu tiếng Nhật đầu tiên được học càng làm mình hoang mang và nghĩ rằng trên cõi đời này chắc không có thứ tiếng nào khó hơn tiếng nhật. Đó chính là câu "chào buổi sáng". Tiếng Việt chỉ có gọn lỏn 3 từ là thế, mà tiếng Nhật nói dài đến hết cả hơi. “O ha yo go zai ma su” – tới những 7 âm tiết. Phải đặt mình trong hoàn cảnh 1 đứa ngố tè, mới học tiếng Nhật lần đầu, nghe 1 câu rối nùi như thế này, bạn mới hiểu hết sự hoảng loạn của mình. (Nghệ thuật thậm xưng là đây. Há há….).
Và rồi lết lết mấy năm trời, mình cũng tốt nghiệp được ngành tiếng Nhật, từ đó bắt đầu vào nghề “mắc dịch”. Những năm đầu mình thấy dịch Việt – Nhật khó gấp đôi dịch Nhật – Việt (Thiệt ra giờ mình vẫn thấy nó khó, há há...). Vì sao? Vì với hệ thống đại học quá “tiến bộ” ở Việt Nam, cộng với năng lực có hạn của mình, để viết được 1 câu tiếng Nhật thật tình phải nói là đổ mồ hôi và cả máu. (Suy nghĩ ko ra, cào cấu chắc nát cả mặt nên có đổ máu J ). Mình từng nghĩ rằng, có anh google hỗ trợ, chỉ cần chăm chỉ tra thì cái gì mà chẳng dịch từ tiếng Nhật ra tiếng Việt được. Nhưng dạo này, mình “mắc dịch” trên toàn phương diện, cả truyện tranh, tiểu thuyết, tác phẩm thơ văn gì cũng bị bắt dịch tuốt. Và khi dịch những nội dung đầy văn chương thế này. Mình mới thực sự thấm thía cái khó của tiếng Việt và cái ngu của bản thân. Khi dịch, có những từ tiếng Nhật rất ngắn, gãy gọn, súc tích. Mình hiểu cả nghĩa và cách dùng của nó. Nhưng mình không thể tìm được cách diễn đạt tương tự bên tiếng Việt. Tức là cũng là một từ đẹp, ngắn gọn, súc tích như tiếng Nhật. Những lúc như vậy, mình đành phải giải thích dông dài bằng tiếng Việt. Đây có thể nói là 1 thất bại dịch thuật.

Mình cũng tự biện minh là do mỗi ngôn ngữ mỗi khác, và chỉ cần dịch đúng nghĩa là được rồi. Tuy nhiên, lời biện minh đó không thể thuyết phục chính bản thân mình. Và mình tra cứu rất nhiều nơi từ từ điển tiếng Việt đến các trang web phân tích tiếng Việt. Cuối cùng mình cũng đã tìm ra từ mình cần và phát hiện thêm nhiều thứ. Đó chính là, tiếng Việt vô cùng phong phú và đẹp đẽ. Đó chính là, khả năng tiếng Việt của mình có giới hạn :(((((
Không chỉ vậy, còn có trường hợp mình đã biết từ đó, nhưng khi cần lại không thể nghĩ ra để sử dụng. Nếu nói theo ngôn ngữ IT thì, ngôn ngữ được mình ghi nhớ trong đầu, nó giống như một dạng dữ liệu lưu trong một cơ sở dữ liệu vô cùng rối rắm do một anh chàng kỹ sư thiếu kinh nghiệm thiết kế, và câu SQL để search có điều kiện không đầy đủ, không tối ưu nên dù search thế nào cũng không tìm ra dữ liệu tương ứng.

Do mình có khả năng viết văn “giỏi” quá nên không thể viết ngắn gọn, súc tích được. Kết quả là bài viết này đã bước sang trang thứ 2.

Nhưng thực ra mình chỉ muốn nói có 2 điều.

Một là, dù là người Việt, cũng chưa chắc bản thân đã hiểu rõ về ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, nên hãy luôn cố gắng trau dồi nhé.

Hai là, học ngoại ngữ cũng là một cơ hội để bạn khám phá vẻ đẹp và nét hấp dẫn của tiếng Việt đó.

ーーー

私はベトナム人ですが、ベトナム語の能力について自信を持っていません。
小学校に入ってから、先生たちがいつも「ベトナム語が嵐のように複雑だよ。そしてベトナム語は美しいよ。」と教えてくれました。しかし、無意識にご飯を食べたり、呼吸をするように考えなくてもベトナム語をペラペラ喋ったり、何でもベトナム語で表現したりすることができたので、ベトナム語は何より簡単だと思いました。さらに、ベトナム語が難しいのか、簡単なのかという考えさえもありませんでした。
例えば、ご飯以外の食べ物を食べたことがなければ、ご飯が美味しいのか、まずいのかについての考えがないと思います。それと同じく、ベトナム語しか知らないとき、私は比較対象がなく、ベトナム語についての感想が何もありませんでした。
ただし、日本語を勉強し始めてから、ベトナム語についての感想が出てきました。
ベトナム語の難易度についても考えました。そのような考えに気づくまでに時間が、かなり掛かりました。
日本語を勉強し始めたばかりのときは、非ローマンアルファベット系の日本語がすごく難しいと思っていました。そのときは日本語を書くのではなく、日本語を描くと言っても言いすぎではありません。さらに、日本語の単語は覚えられないほど長いという印象がありました。たとえば、朝の挨拶は、ベトナム語では「Chào buổi sáng」であり、3音節だけですが、日本語では「おはようございます」となり、7音節になります。もちろん、長いほうが覚えにくく、難しくなるわけです。
翻訳の仕事を始めてから最初の数年間は、私にとって越和の翻訳のほうが和越の翻訳より倍ほど難しかったです。なぜかというと、日本語の語彙や日本語のニュアンス不足で日本語に訳すのに手間がかかったのです。ベトナム語に訳すれば、何でも表現できるという自身を持っていました。ただし、最近、私の翻訳分野が広くなり、漫画や文学作品までも翻訳することになりました。このような表現が豊かな翻訳原稿を翻訳してこそ、ベトナム語の難しさ、および自分のベトナム語の制限について理解できるようになりました。
翻訳する時に、日本語の言葉のニュアンスについてよく分かっているが、ベトナム語では、相当する適切な言葉が出てこない場合も少なくありません。その場合は、ベトナム語の単語ではなく、意味で長く説明するようにしました。それは翻訳失敗だと思います。
言語によって、使う言葉が違うということで、意味が伝われば良いかと言い訳をつけましたが、なんか自分の中でも納得できず、ベトナム語の辞書やインターネットで色々調べました。やっとわかるようになりました。分かったのは色々なことです。ベトナム語がすごく豊かで美しいことや、自分の語彙不足、表現力不足のこと等です。
また、語彙を知っていても、必要なときにうまく生かせないこともあります。これはIT用語で面白く説明すると、頭の中に存在している言葉が、ごちゃごちゃとしたデータベースにデータとして保存されていますが、条件の足りないSQLで検索しても、なかなか引っ掛からないということです。
文章力不足の関係で短く書いたら、言いたいことが十分に伝わらないかもしれないと思い、長く書いてしまっていますが、要するには、言いたいことが2つあります。
1つは、ベトナム人ならベトナム語が何でも分かるわけではないということです。そのため、母語でもしっかりと勉強したり、調べたりする必要があります。
もう1つは、外国語を勉強することにより母語について色々発見できるようになるということです。

Đọc sách và ngẫm sự đời!!!! 読書と人生

Dạo này mình đắm chìm trong những trang tiểu thuyết của Haruki Murakami nên hơi xao nhãng trong vụ cập nhật blog. (Dù không biết có ai đọc không nhưng mình vẫn cố gắng viết để sau này còn nhìn lại và biết được ở mỗi thời kỳ, mình sống như thế nào, suy nghĩ ra sao và đam mê điều gì).

Một vài người bạn thấy mình kè kè quyển tiểu thuyết tiếng Nhật bên mình thì mắt tròn mắt dẹt rằng: "Sao mày kinh thế, đọc tiểu thuyết tiếng Nhật luôn à? Có hiểu không đấy?". Hiểu chớ sao không, không chỉ hiểu mà còn mê nữa đấy. Nhưng mình khẳng định, đọc tiểu thuyết tiếng Nhật không cần phải có trình độ kinh khủng gì lắm đâu. Làng xàng cỡ mình là đọc được tuốt.

Tiếng Nhật cũng như nhiều thứ tiếng khác, nó có văn cảnh. Khi đọc dĩ nhiên sẽ có xuất hiện những từ mình chưa gặp bao giờ, nhưng dựa vào văn cảnh mình sẽ hiểu được từ ấy mà không cần phải tra. Khi đọc sách, mình chỉ tra những từ mà nếu không hiểu nó mình không thể hiểu nỗi câu ấy nói gì. Nhưng hiếm khi nào chỉ vì 1 từ mà chúng ta hoàn toàn không hiểu cả đoạn đúng không nào? Thường thì đứa làm biếng như mình sẽ tạm thời cho qua từ ấy, đọc thêm 1 đoạn tự khắc sẽ "nhận ra chân lý".

Mình lấy ví dụ nhé! Mình đọc đến đoạn nói về Adolf Otto Eichmann có xuất hiện từ ユダヤ人, lúc đầu mình cũng chẳng biết ユダヤ人 này là cái gì. Nhưng đọc thêm, mình biết được ông này là sĩ quan phát xít Đức và ông có nhiệm vụ tiêu diệt người ユダヤ. Vậy thì ユダヤ là "Người Do Thái" chứ còn gì nữa. Cứ thế, tự nhiên nạp được 1 từ mới mà chẳng cần phải tra :)))))

Đọc sách cũng như cuộc sống vậy đó. Nhiều lúc có những chuyện xảy ra, mình cứ nghĩ rằng mình không hiểu và cố "truy cứu" tới cùng. Nhưng sao phải cực vậy chứ!? Cứ ghi nhận nó một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng một lúc nào đó mình hiểu nó một cách rõ ràng đến bất ngờ đấy!

P.S: Đọc nhiều sách tiếng Nhật thấy người Nhật viết tiếng Nhật đơn giản hơn người nước ngoài viết tiếng Nhật nhiều. :)))))

Thế mới nói, "Đỉnh cao của ngôn ngữ là sự giản đơn" và "Đỉnh cao của cuộc sống là sự an nhiên". (Hình như hổng liên quan gì ráo trọi. Ha ha...)

---

最近、読書にハマっていてブログをまったく書いていませんでした。(私のブログの読者がいないかもしれませんが、自分の人生の中でいつ頃に何をしていたのか、どういうふうに考えていたのか、何にハマっていたのかを顧みられるようにできるだけ頑張って書いていきたいと思います。

いつも日本語の小説を持ち歩いている私は友だちに「君は日本語の小説をよめるのがすごいね。理解できるの?」と言われました。「理解できるよ。その上にハマっているのよ。」と私は答えしました。私にとって、日本語の小説を読むことはそんなにすごいことではありません。あまり日本語が上手でない私でも読めるわけがあります。

日本語も他の言語と同じく、文脈が重要なのです。どの言語でも語彙の量が非常に多く、外国人は日本語を読む際に、わからない言葉や初めて見る言葉が現れるのが当然です。しかし、文脈によって、その単語の意味を調べずに文章全体の意味を理解することができると思います。もちろん、その単語を理解できないと、文章全体がわからない場合は調べることが必要ですが、そのような場合は多くないと思います。面倒くさがる私はいつもそれを置いておき、次に進むことにします。こうするとやがて悟りを開くようになります。(言い過ぎです!笑ー)

例えを1つあげますが、今読んでいる村上春樹さんの【海辺のカフカ】という小説にアドルフ・アイヒマンについての文章があり、その中にはユダヤ人という言葉が出てきました。最初はこの言葉が分かりませんでしたが、もっと読むとアドルフ・アイヒマンという人物がドイツ人の親衛隊中佐であり、ユダヤ人絶滅計画を担任した人だと分かり、それによってユダヤ人という言葉の意味も理解できるようになりました。

つまり、調べなくても文脈から新しい言葉の意味を理解できる場合が多いわけです。
人生も読書と同じです。 自分の人生で起こった出来事に対して、理由等が分からず、必死に理解しようとする時もあるのではないかと思いますが、それを理解しない方が人生を上手く送れる場合もあるかもしれません。前向きに進むといつかきっと分かるようになるのではないでしょうか。
因みにですが、日本人の書いた日本語の本をたくさん読みましたが、外国人の日本語と比べてみると、意外と日本人の方が外国人より簡単で分かりやすい日本語を書いているように見受けられます。
言語の最高レベルは簡単さですよね。
では、人生の最高レベルはなんでしょうか。きっと心の平静だと思います。

Kí ức tuổi thơ 大切な思い出

           f:id:KokoronoNiwa:20161019213021j:plain

Đêm qua tôi mơ. Trong giấc mơ, tôi thấy mình theo các anh đi chăn trâu buổi chiều trên cánh đồng đầy nắng gió. Tôi tung tăng chạy nhảy trên cánh đồng đốt rạ cuối vụ mùa, rong chơi mải miết cho đến khi từng giọt nắng vàng vọt cuối cùng rơi rụng, xuyên qua đám mây ửng đỏ như rạ cháy, rồi tắt lịm. Bầu trời chụp xuống bóng đêm mịt mùng, bao phủ con đường dẫn về thôn. Trong bóng đêm, vang vọng tiếng hát lanh lảnh của bọn chăn trâu về muộn. Cả con đường quê rộn ràng mà quá đỗi bình yên. Anh tôi đưa trâu vào chuồng và đóng cổng. Chúng tôi ùa vào mâm cơm mẹ và các chị dọn sẵn bên mái hiên vẫn còn nong nóng do cái nắng hồi chiều chiếu trên nền gạch. Tay chân lem luốc bùn đất chưa kịp rửa, đứa nào đứa nấy lùa cơm ăn một cách ngon lành. Bình dị làm sao cảnh cả gia đình quây quần bên mâm cơm với 2 chiếc đèn dầu bu đầy mù du, phải vừa ăn vừa phủi. Lắm lúc có vài chú rơi tùm vào tô canh, nhưng chẳng ai buồn vớt. Cứ thế mà chang, mà húp hăng say. 

Ăn cơm tắm rửa xong, chị tôi trải chiếu ra sân và mấy anh em lại chen nhau nằm ngắm sao. Nền sân vẫn còn nóng, lại thoang thoảng mùi phân gà do mấy con gà "phóng thải" ban ngày. Chị tôi hồi đó là một nhà thiên văn học trong mắt tôi. Chị chỉ cho tôi đâu là chòm sao Bắc Đẩu, đâu là sao lưỡi cày.... Rồi những câu chuyện tào lao không đầu không cuối cứ rôm rả liên hồi. Tiếng cười không ngớt, tuy thỉnh thoảng có xen lẫn tiếng đập muỗi bôm bốp. Và sau đó, tôi bị cơn buồn ngủ quấn lấy, mí mắt sụp xuống chìm vào giấc ngủ với nụ cười vẫn chưa kịp tắt trên môi. Sau đó, không biết chuyện gì xảy ra nữa, nhưng sáng thì tôi luôn tỉnh giấc trên giường. Chắc có bà tiên đã bế tôi vào nhà lúc tôi ngủ say. 

Tôi bừng tỉnh giấc. Tôi không phải là con bé con nữa, cũng không còn ở miền quê êm đềm đầy ắp kí ức tuổi thơ. Nhưng những cảm xúc trong giấc mơ rất thật, thật đến mức tôi vẫn cảm nhận được mùi phân gà trên nền sân nóng, tiếng anh chị tôi cười đùa vẫn văng vẳng bên tai. Tôi sợ những kí ức này sẽ trôi tuột đi mất và tôi sẽ không còn chạm tới được. Tôi phải viết ra đây để giữ lại một miền kí ức tuổi thơ êm đềm.

-------------------------------------------------------------------------------

 昨夜、夢をみました。夢では、兄たちについて田んぼで水牛を放牧していました。稲刈りが終わった稲わら焼きの田んぼで、やけに赤い雲の切れ間から溢れている、夕日が消えるまで楽しんで遊んでいました。帰り道が真っ暗な夜空に覆われました。どこからともなく放牧者たちの生き生きとした歌声が響き届きました。騒がしいながらも平和な田舎の道でした。 家に着いたら、兄たちは牛水を柵に囲い込み、ドアを閉めました。 お母さんと姉たちが縁側に用意しておいた食事にわらわらと集まった私たちは手を洗う余裕もなく、もくもくと美味しく食べました。家族全員で石油ランプを囲み集まって、わいわいと食べている様子は平和で幸せでした。 石油ランプの周りには小さな黒い虫だらけなので、それを口で吹き飛ばしながら食べましたが、すごく楽しかったです。 実は何匹もスープの中に落ちていましたが、平気で飲み込んでしまいました (笑)。 食事とお風呂が終わったら、姉が米干し場に畳を敷いて、兄弟みんなで仰向けになり星空を眺めました。その時、真夏の暑い地面は、鶏が昼間に出したフンの臭いを強くさせた気がしました。懐かしい匂いです。 姉は空を指しながら、北斗星やオリオン座等の星群の名前と位置を教えてくれました。私たちは星空を見ながら楽しく笑ったり喋ったりしていました。時々、蚊を倒す叩き声もありました。笑ー。 夜遅くなり、私は猛烈な眠気に襲われ、微笑みかけたままで寝落ちました。そのあとのことが分からなくなりましたが、起きたらベッドにいました。もしかして妖精がベッドまで運んでくれたのでしょうか。 目が覚めました。しかし夢でした。でも、鶏のフンの臭みや兄弟の笑い声が、今でも感じられるほど現実みたいな夢でした。突然、このような懐かしい思い出が消えてしまうと思うと不安になってきました。必ず故郷の大切な記憶を残しておこうと思いました。そういうわけでこれを書きました。